Trang chủ/

Bài báo

Ảnh hưởng của chất khô hòa tan, pH, hàm lượng nấm men đến quá trình lên men rượu từ chuối già (Musa × paradisiaca)
Số trang 15
Từ khóa: Độ đường Brix, hàm lượng nấm men, lên men, pH, rượu vang chuối già
|| || Chi tiết

Chuối già (Musa × paradisiaca) là một loại trái cây có hương vị thơm ngon và bổ dưỡng nhưng lại rất dễ hư hỏng và khó bảo quản. Chuối già chủ yếu được tiêu thụ khi chín với giá trị thương phẩm không cao. Việc tận dụng chuối già ở giai đoạn chín mùi trong quá trình lên men rượu được nghiên cứu nhằm tạo ra sản phẩm giá trị gia tăng cũng như góp phần giảm ô nhiễm môi trường. Nghiên cứu được tiến hành nhằm mục tiêu xác định tác động của ba yếu tố gồm hàm lượng chất khô hòa tan, pH và hàm lượng nấm men bổ sung đến chất lượng rượu vang chuối già. Kết quả nghiên cứu cho thấy các yếu tố này đều ảnh hưởng đáng kể đến các chỉ tiêu như độ cồn, pH sau lên men, hàm lượng chất khô hòa tan sau lên men và hàm lượng đường sót trong sản phẩm rượu vang. Rượu vang chuối già đạt độ cồn cao (13,3%), hàm lượng đường sót thấp (1,19 g/l), pH thấp và Brix thấp khi các thông số lên men được thiết lập ở mức pH 4,5, hàm lượng chất khô hòa tan 20°Bx và bổ sung 0,04% nấm men. Kết quả nghiên cứu cung cấp cơ sở khoa học cho triển vọng phát triển rượu vang chuối già, với chất lượng tốt như rượu vang từ các nguyên liệu trái cây khác tại Đồng bằng sông Cửu Long.

Đánh giá hiệu quả của vi khuẩn Bacillus bản địa chuyển hóa đạm, lân trong bùn đáy ao nuôi Artemia
Số trang 13
Từ khóa: Artemia, Bacillus, chuyển hóa N và P, bùn đáy ao, vi khuẩn bản địa
|| || Chi tiết

Nghiên cứu thực hiện nhằm tuyển chọn và đánh giá vi khuẩn Bacillus sp. bản địa từ ao nuôi Artemia có khả năng thủy phân N, P và kháng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus. Nghiên cứu tại Vĩnh Châu - Sóc Trăng, tuyển chọn được 12 dòng vi khuẩn Bacillus với ba nhóm đặc trưng là trắng đục (TĐ), trắng trong (TT), vàng (V) từ bùn đáy ao và nước ao nuôi Artemia ở độ mặn 60 và 80‰. Kết quả đánh giá khả năng thủy phân N, P và kháng vi khuẩn cho thấy ở độ mặn 60‰, vi khuẩn Bacillus trắng đục (Đ-TĐ) được định danh bằng phân tích gen 16S rRNA là Bacillus subtilis cho hiệu quả cao nhất. Thí nghiệm xử lý bùn đáy ao được bố trí, với 2 độ mặn 60‰ và 80‰, kết hợp bổ sung dòng vi khuẩn Bacillus subtilis được tuyển chọn với mật số 107 CFU/ml và 109 CFU/ml. Kết quả cho thấy bổ sung dòng vi khuẩn Bacillus subtilis với mật số 109 CFU/ml có khuynh hướng hạn chế sự phát triển mật số của vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus, giảm hàm lượng TAN, NO2- và gia tăng hàm lượng NO3- và lân dễ tiêu trong bùn đáy ao nuôi Artemia.

Hiệu quả của vi khuẩn Bacillus phân lập từ hạt Biofloc trong cải thiện sinh trưởng của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei)
Số trang 16
Từ khóa: Bacillus, Biofloc, tôm thẻ chân trắng, Vibrio parahaemolyticus, vòng kháng khuẩn, vòng thủy phân.
|| || Chi tiết

Nghiên cứu được thực hiện nhằm tuyển chọn các chủng vi khuẩn Bacillus từ hạt Biofloc có khả năng thủy phân tinh bột, N và khả năng kháng vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus cải thiện hiệu quả của hệ thống nuôi tôm thẻ chân trắng. Thí nghiệm được thực hiện tại trại thực nghiệm Khoa Sinh học Ứng dụng - Trường Đại học Tây Đô, sử dụng với năm nguồn carbohydrate khác nhau: Thức ăn (Đối chứng), Bột gạo, Bột mì, Rong và Rỉ đường. Kết quả xác định được dòng vi khuẩn Bacillus màu trắng đục từ hạt Biofloc với nguồn carbohydrate là Bột gạo và được định danh là vi khuẩn Bacillus subtilis. Dòng Bacillus subtilis này được ứng dụng thử nghiệm trong nuôi tôm thẻ chân trắng trong bể ở các mật độ vi khuẩn khác nhau: Đối chứng (không bổ sung vi khuẩn), và các nghiệm thức bổ sung 105 CFU/ml; 107 CFU/ml và 109 CFU/ml. Thí nghiệm trong 60 ngày, thực hiện trong bể composite 500 lít với mật độ nuôi 150 con/m³ và tôm giống có kích thước ban đầu 0,45±0,09 g/con. Kết quả cho thấy bổ sung mật độ vi khuẩn 109 CFU/ml giúp tôm tăng tỷ lệ sống, chiều dài, trọng lượng, sinh khối, và có hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR) hiệu quả nhất, khác biệt (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại. Kết quả nghiên cứu có triển vọng tốt và là cơ sở cho việc thử nghiệm vào thực tế ao nuôi tôm thẻ chân trắng thâm canh.

Những hạn chế về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra và đề xuất giải pháp hoàn thiện
Số trang 17
Từ khóa: Bồi thường thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, súc vật.
|| || Chi tiết

Bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra là một nội dung rất được quan tâm của chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trên thực tế lại có nhiều quan điểm, ý kiến trái ngược xoay quanh về bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra, đồng thời việc áp dụng thực tế vẫn còn khó khăn, bất cập. Pháp luật Việt Nam chưa có những quy định cụ thể nào điều chỉnh, phân loại súc vật được nuôi, hạn chế nuôi hay cấm nuôi. Các quy định về mức xử phạt vi phạm khi vi phạm còn quá thấp, chưa mang tính răn đe để chủ sở hữu tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Vì vậy, việc nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra góp phần đề xuất cải thiện sự chặt chẽ về mặt pháp lý và nhất là bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể mà quy định pháp luật này điều chỉnh.

Đánh giá tình hình và nguyên nhân các tội phạm về bạo lực gia đình trên địa bàn thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
Số trang 14
Từ khóa: Bạo lực gia đình, điều kiện, nguyên nhân, tội phạm
|| || Chi tiết

Nghiên cứu được thực hiện nhằm phân tích nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm về bạo lực gia đình (BLGĐ), từ đó đề xuất các biện pháp phòng ngừa nhằm hạn chế loại tội phạm này trong thời gian tới. Nghiên cứu sử dụng phương pháp thống kê, tổng hợp số liệu từ Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho và phương pháp xã hội học để phân tích tình hình tội phạm và xác định nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội phạm về BLGĐ. Kết quả cho thấy tình hình các tội phạm về BLGĐ trên địa bàn thành phố Mỹ Tho có chiều hướng gia tăng và diễn biến phức tạp. Có bốn nhóm nguyên nhân, điều kiện gây phát sinh tình hình các tội phạm về BLGĐ: nguyên nhân, điều kiện về kinh tế, xã hội; nguyên nhân, điều kiện về tổ chức, quản lý; nguyên nhân, điều kiện và văn hóa, giáo dục và nguyên nhân, điều kiện về tâm lý, nhận thức. Từ đó, tác giả đề xuất các biện pháp phòng ngừa các tội phạm về BLGĐ trên địa bàn thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang trong thời gian tới.